Câu đối thuộc thể loại văn biền ngẫu, gồm hai vế đối nhau nhằm biểu thị một ý chí, quan điểm, tình cảm của tác giả trước một hiện tượng, một sự việc nào đó trong đời sống xã hội. Nên lưu ý là từ đối (對) ở đây có nghĩa là ngang nhau, hợp nhau thành một đôi. Câu đối là một trong những thể loại của Văn học Việt Nam, Trung Hoa, Nhật Bản, và Hàn Quốc.
I. Nguyên tắc của câu đối
-
Đối ý và đối chữ
- Đối ý: hai ý đối phải cân nhau mà đặt thành 2 câu sóng nhau.
- Đối chữ: phải xét 2 phương diện thanh và loại.
- – Về thanh: thanh bằng đối với thanh trắc và ngược lại.
- – Về loại: thực tự (hay chữ nặng như: trời, đất, cây…) phải đối với thực tự; hư tự (chữ nhẹ như: thì, mà, vậy, ru…) phải đối với hư tự; danh từ phải đối với danh từ, động từ phải đối với động từ; nếu vế đối này có đặt chữ Nho thì vế kia cũng phải đặt chữ Nho
-
Số chữ và các thể câu đối
Số chữ trong câu đối không nhất định, theo số chữ và cách đặt câu có thể chia câu đối ra làm các thể sau:
- Câu tiểu đối: là những câu 4 chữ trở xuống.
- Câu đối thơ: là những câu làm theo lối đặt câu của thể thơ ngũ ngôn hoặc thất ngôn.
- Câu đối phú: là những câu làm theo các lối đặt câu của thể phú, gồm có:
- – Lối câu song quan: là những câu 6 đến 9 chữ, đặt thành một đoạn liền
- – Lối câu cách cú: là những câu mà mỗi vế chia làm 2 đoạn, một đoạn ngắn, một đoạn dài
- – Lối câu gối hạc hay hạc tất: là những câu mỗi vế có 3 đoạn trở lên.
-
Luật bằng trắc
- Câu tiểu đối:
- – Vế phải: trắc-trắc-trắc
- – Vế trái: bằng-bằng-bằng
- Câu đối thơ: phải theo đúng luật bằng trắc của hai câu thực và câu luận trong lối thơ ngũ ngôn hoặc thất ngôn.
- Câu đối phú: Chữ cuối mỗi vế và chữ cuối mỗi đoạn phải bằng đối với trắc hoặc trắc đối với bằng. Khi mỗi vế đối có từ 2 đoạn trở lên thì nếu chữ cuối vế là trắc, các chữ cuối các đoạn trên phải là bằng và ngược lại. Nếu đoạn đầu hoặc đoạn dưới có đúng 7 chữ thì đoạn ấy thường theo luật thơ thất ngôn.
II. Phân loại câu đối ở Việt Nam
- Câu đối mừng: làm để tặng người khác trong những dịp vui mừng như: mừng thọ, mừng thi đỗ, mừng đám cưới, mừng nhà mới…
- Nhất cận thị, nhị cận giang, thử địa khả phong giai tị ốc.
- Sống ở làng, sang ở nước, mừng ông nay lại vểnh râu tôm
- (Nguyễn Khuyến, viết mừng một chánh tổng trước bị cách chức, sau được phục sự và làm nhà mới.)
- Câu đối phúng: làm để viếng người chết.
- Nhà chỉn nghèo thay, nhờ được bà hay lam hay làm, thắt lưng bó que, xắn váy quai cồng,
- tất tưởi chân nam đá chân chiêu, ví tớ đỡ đần trong mọi việc
- Bà đi đâu vợi mấy, để cho lão vất vơ vất vưởng, búi tóc củ hành, buông quần lá toạ,
- gật gù tay đũa chạm tay chén, cùng ai kể lể chuyện trăm năm.
- (Nguyễn Khuyến: câu đối khóc vợ)
-
- Câu đối Tết: làm để dán nhà, cửa, đền, chùa…về dịp Tết Nguyên Đán.
- Chiều ba mươi, nợ hỏi tít mù, co cẳng đạp thằng Bần ra cửa.
- Sáng mồng một, rượu say tuý luý, giơ tay bồng ông Phúc vào nhà.
- (Nguyễn Công Trứ, câu đối làm vào dịp tết lúc còn hàn vi.)
- Tết đến không tiền vui chi Tết / Xuân về kết gạo đón chi Xuân.
- (Tác giả, câu đối làm vào dịp tết lúc còn hàn vi.)
- Câu đối thờ: là những câu tán tụng công đức tổ tiên hoặc thần thánh làm để dán hoặc treo những chỗ thờ.
- Tuế hữu tứ thời xuân tại thủ.
- Nhân ư bách hạnh hiếu vi tiên.
- (Dịch nghĩa: Năm có bốn mùa, mở đầu bằng mùa xuân. Người ta có trăm tính nhưng tính hiếu thảo là cần trước hết) hoặc:
- Mở rộng phương Tiên, công tế thế cao bằng Thái lĩnh
- Sống nhờ của Phật, ơn cứu người rộng tựa Cẩm Giang
- (Câu đối thờ Tuệ Tĩnh ở đền Bia)
- Tùng thanh, trúc thanh, chung khánh thanh, thanh thanh tự tại.
- Sơn sắc, thủy sắc, yên hà sắc, sắc sắc giai không.
- (Câu đối khắc ở chùa Diệu Đức, Huế).
- Câu đối tự thuật: là những câu kể ý chí, sự nghiệp của mình và thường dán ở những chỗ ngồi chơi.
- Chị em ơi! ba mươi sáu tuổi rồi, khắp đông, tây, nam, bắc bốn phương trời, đâu cũng lừng danh công tử xác.
- Trời đất nhẻ! gắng một phen này nữa, xếp cung, kiếm, cầm, thư vào một gánh, làm cho nổi tiếng trượng phu kềnh
- (Nguyễn Công Trứ, câu đối tự thuật)
- Câu đối đề tặng: là những câu đối làm ra để đề vào chỗ nào đó hoặc tặng cho người khác.
- Nếp giàu quen thói kình khơi, con cháu nương nhờ vì ấm
- Việc nước ra tay chuyên bát, bắc nam đâu đấy lại hàng
- (Lê Thánh Tông, câu đối đề ở một hàng bán giàu (trầu) nước)
- Câu đối tức cảnh: là những câu tả ngay cảnh trước mắt.
- Câu đối chiết tự (chiết: bẻ gãy, phân tách; tự: chữ): là những câu do sự tách chữ Hán hoặc chữ Nôm ra từng nét hoặc từng phần mà đặt thành câu.
- Câu đối Tết: làm để dán nhà, cửa, đền, chùa…về dịp Tết Nguyên Đán.
- Tự (字) là chữ, cất giằng đầu, chữ tử (子) là con, con ai con nấy?
-
- Vu (于) là chưng, bỏ ngang lưng, chữ đinh (丁) là đứa, đứa nào đứa này.
-
- Câu đối trào phúng: là những câu làm để chế diễu, châm chích một người nào đó.
-
-
- Cung kiếm ra tay, thiên hạ đổ dồn hai mắt lại.
- Rồng mây gặp hội, anh hùng chỉ có một ngươi thôi
- (Câu đối tặng một người chột mắt mới đỗ khoa thi võ)
- Câu đối tập cú: là những câu lấy chữ sẵn ở trong sách hoặc ở tục ngữ, ca dao.
- Gái có chồng như rồng có vây, gái không chồng như cối xay không ngõng.
- Con có cha như nhà có nóc, con không cha như nòng nọc đứt đuôi.
- Giơ tay với thử trời cao thấp
- Xoạc cẳng đo xem đất ngắn dài
- (Hồ Xuân Hương, vịnh cảnh trượt chân, ngã xoạc cẳng)
-
- Câu đối thách (đối hay đố): người ta còn nghĩ ra những câu đối oái ăm, cầu kỳ rồi người ta tự đối lấy hoặc thách người khác đối. Lối đối này thường sử dụng nghệ thuật chơi chữ, đồng âm dị nghĩa…
- Con cóc leo cây vọng cách, nó rơi xuống cọc, nó cạch đến già
- Con công đi qua chùa kênh, nó nghe tiếng cồng nó kềnh cổ lại
- (Câu đối có bốn chữ: cóc cách cọc cạch đối với bốn chữ công kênh cồng kềnh)
Có những vế câu đối rất khó đối như:
- Cha con thầy thuốc về quê, gánh một gánh hồi hương, phụ tử.
- Vế này khó đối vì hồi hương (cũng có nghĩa “về quê”) và phụ tử (cũng có nghĩa “cha con”) đồng thời lại là tên gọi các vị thuốc.
- Vào vụ đông trường nam bón phân bắc trồng khoai tây, Sang xuân hạ quyết tâm thu hàng tấn củ.
- Vế này cũng khó đối vì đông, tây, nam, bắc (chỉ hướng địa lý) và xuân, hạ, thu, đông (chỉ các mùa ở Việt Nam)
- Da trắng vỗ bì bạch
- Câu đối thách (đối hay đố): người ta còn nghĩ ra những câu đối oái ăm, cầu kỳ rồi người ta tự đối lấy hoặc thách người khác đối. Lối đối này thường sử dụng nghệ thuật chơi chữ, đồng âm dị nghĩa…
- Vế đối này của Đoàn Thị Điểm, hiện nay, có khá nhiều người đối nhưng chưa chỉnh, câu đối đã được đăng ở quyển Thế giới mới được coi là tạm ổn nhất.
-
- “Sáng sớm mùa đông, qua cửa phía đông, đến chợ người đông, mua cục thịt đông“
-
-
- Nhà chỉn nghèo thay, nhờ được bà hay lam hay làm, thắt lưng bó que, xắn váy quai cồng,
Đánh giá
Chưa có đánh giá nào.