Nguyễn Du (chữ Hán: 阮攸; 3 tháng 1 năm 1766 – 16 tháng 9 năm 1820) tên tự là Tố Như (素如), hiệu là Thanh Hiên (清軒) – một thiên tài thi ca của dân tộc – không chỉ để lại cho đời một kiệt tác văn học qua Truyện Kiều, mà còn gửi gắm trong đó những triết lý nhân sinh sâu sắc, đặc biệt là mối quan hệ giữa chữ “Tài” và chữ “Mệnh” – hai phạm trù tưởng đối lập nhưng lại quyện chặt vào nhau trong số phận con người.
Tượng Đại thi hào Nguyễn Du tại khu lưu niệm ở quê hương Nghi Xuân, Hà Tĩnh
Ngay từ đầu truyện, tác giả đã viết:
“Trăm năm trong cõi người ta
Chữ tài chữ mệnh khéo là ghét nhau.”
Với Nguyễn Du, tài năng không phải là món quà may mắn, mà nhiều khi là khởi đầu của bi kịch. Thúy Kiều, cô gái tài sắc vẹn toàn, giỏi cầm kỳ thi họa, sống hiếu nghĩa và có tâm hồn thanh cao, lại trở thành nạn nhân của những bất công tàn nhẫn. Chính tài sắc ấy đã khiến nàng bị đẩy vào vòng xoáy bi kịch: bán mình chuộc cha, lưu lạc chốn lầu xanh, chịu bao cay đắng, ê chề.
Câu thơ nổi tiếng:
“Chữ tài liền với chữ tai một vần” không chỉ là một lời bình, mà còn là tiếng thở dài xót xa cho số phận những con người tài năng nhưng sinh ra không gặp thời, không gặp người. Trong bối cảnh xã hội phong kiến thối nát, người phụ nữ – dù có tài, có đức – cũng không thể chống lại sức mạnh tàn khốc của số phận. Đó chính là “chữ mệnh” – cái định mệnh nghiệt ngã, vượt khỏi sự kiểm soát của con người.
Tuy nhiên, Nguyễn Du không tuyệt vọng. Ông không phó mặc cho mệnh trời một cách mù quáng. Dù phải chịu đựng bao bể dâu, cuối cùng Kiều vẫn được đoàn tụ với gia đình. Điều đó thể hiện một niềm tin vào luật nhân quả, vào chữ “thiện” trong cõi người. Mệnh có thể trớ trêu, nhưng nếu con người biết sống nhân ái, giữ vững đạo đức và nghị lực, thì vẫn có thể vượt lên trên số phận.
Qua tư tưởng “Tài” và “Mệnh”, Nguyễn Du không chỉ phản ánh sự bất công của xã hội phong kiến, mà còn bày tỏ lòng cảm thông sâu sắc với những con người tài hoa bất hạnh. Ông cất lên tiếng nói nhân đạo đầy day dứt: “Người tài thường bạc mệnh, nhưng nếu tâm sáng, lòng thiện thì trời xanh ắt có mắt.”
Việc treo tranh thư pháp chữ Tài chữ Mệnh không chỉ mang giá trị thẩm mỹ, mà còn hàm chứa triết lý sống sâu sắc, là một hình thức thể hiện tư duy nhân sinh, đặc biệt phù hợp với người Á Đông, trong đó có Việt Nam.
Tài” đại diện cho trí tuệ, năng lực, phẩm chất cá nhân, là kết tinh của sự học hỏi, rèn luyện và cống hiến.
Treo tranh thư pháp chữ Tài như một lời nhắc nhở mỗi người không ngừng học hỏi, phát huy sở trường, sống có lý tưởng, có trách nhiệm.
Với người trẻ, đó là động lực để không lãng phí tuổi xuân. Với người trưởng thành, đó là lời tri ân năng lực và sự phấn đấu không ngừng.
“Mệnh” không chỉ là số phận do “trời định”, mà còn mang hàm ý sâu sắc về sự cân bằng, chấp nhận những điều ngoài tầm kiểm soát.
Treo tranh thư pháp cả chữ Tài chữ Mệnh chính là biểu hiện của triết lý cân bằng: Có Tài thì nên dùng, nên phát huy. Nhưng cũng cần hiểu rằng Mệnh có lúc thuận, lúc nghịch – sống phải có tâm thế vững vàng, không vì khó khăn mà nản, không vì thành công mà kiêu.
Đây là lời răn dạy nhẹ nhàng nhưng sâu sắc: có chí tiến thủ, nhưng vẫn biết sống thuận thời, thuận thế, thuận lòng người.
Đây là cách người xưa thể hiện sự tĩnh tại giữa phong ba, biết đủ, biết buông, và biết sống theo quy luật nhân quả.
Treo tranh thư pháp chữ Tài – Mệnh trong phòng làm việc, phòng khách, thư phòng giúp:
Tăng sự tôn nghiêm, trí tuệ, minh triết cho không gian.
Gợi năng lượng tích cực, thu hút tài khí nhưng vẫn giữ được sự ổn định và điềm tĩnh.
Rất phù hợp làm quà tặng tân gia, khai trương, mừng thọ – thay cho lời chúc: “Tài cao vững mệnh, sự nghiệp hanh thông”. ( Ngọc Đình).
Đánh giá
Chưa có đánh giá nào.